Mặc dù nằm trong top đầu về sản xuất và xuất khẩu tôm, nhưng ngành tôm Việt Nam vẫn ẩn chứa bất cập. Yêu cầu đổi mới để tăng hiệu quả sản xuất, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm đang được đặt ra nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành này.
Yêu cầu cao
Hiện nay, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại như FTA Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam với Liên minh kinh tế Á - Âu... Cùng đó, FTA Việt Nam - EU, Hiệp định Thương mại hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sắp hoàn tất sẽ mở ra nhiều cơ hội cho xuất khẩu tôm Việt Nam.
Tuy nhiên, khi hàng rào thuế quan dần được loại bỏ, các thị trường tiêu thụ tôm được coi là khó tính và có giá trị cao như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... ngày càng đặt ra nhiều quy định nghiêm ngặt về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, là các đòi hỏi về an sinh xã hội, điều kiện sản xuất khó khăn.
Người tiêu dùng tại các thị trường khó tính này sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm thủy sản có chất lượng tốt, nhưng họ đặc biệt quan tâm vệ sinh an toàn thực phẩm. Cụ thể nhất là danh mục hóa chất và kháng sinh cấm, hạn chế sử dụng thường xuyên được bổ sung, mức phát hiện dư lượng liên tục bị hạ thấp. Đó là một loại rào cản kỹ thuật buộc các nhà xuất khẩu thủy sản của Việt Nam phải liên tục khắc phục.
Trong các thị trường này, Nhật Bản được coi là thị trường khó tính nhất. Kết quả khảo sát thị trường Nhật Bản của Tổ chức Greenpeace cho thấy, người Nhật đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm, nhạy cảm với những thay đổi theo mùa, ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm, quan tâm nhiều tới vấn đề sinh thái.
Chế biến tôm xuất khẩu - Ảnh: An Đăng
Giải pháp gỡ khó
Ông Võ Thành Đô, Phó cục trưởng Cục Chế biến Nông Lâm Thủy sản và Nghề muối cho biết, các sản phẩm tôm chế biến sâu có giá trị gia tăng chiếm khoảng 65% cơ cấu sản phẩm tôm, nhưng chi phí chế biến cũng cao tương ứng nên hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn thấp. Việc thay đổi cơ cấu để sản xuất các mặt hàng mới có giá trị gia tăng cao còn nhiều khó khăn do thiếu vốn, công nghệ, lao động, thông tin và khách hàng.
Tại Cà Mau, địa phương có 32 công ty và gần 38 xí nghiệp trực thuộc với tổng công suất thiết kế trên 190.000 tấn/năm - các trang thiết bị, công nghệ sản xuất, chế biến cũng được đánh giá là hiện đại và ngang tầm khu vực. Tuy nhiên, chỉ có trên 40% sản phẩm thủy sản xuất khẩu đạt giá trị gia tăng, còn lại chủ yếu xuất khẩu thô.
Thời gian qua, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam luôn phải đối mặt những rào cản kỹ thuật, bị cảnh báo. Nhiều chuyên gia ngành thủy sản cho rằng, không hẳn là các nước nhập khẩu tôm “làm khó” mà do các doanh nghiệp tôm Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu của các thị trường này, nhất là về vấn đề dư lượng kháng sinh, hóa chất vượt mức cho phép. Theo thống kê, 4 tháng đầu năm 2015, Việt Nam bị các thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản cảnh báo chất cấm và trả về 36 lô tôm, bằng gần 40% con số cả năm ngoái.
Hiện nay hệ thống theo dõi, giám sát và có khả năng truy xuất nguồn gốc quá trình nuôi, chế biến đến tiêu thụ tôm tại Việt Nam còn hạn chế. Đa số sản phẩm tôm Việt Nam không truy xuất được nguồn gốc, dẫn đến việc các nước phải kiểm tra chất lượng hàng Việt Nam mang tính xác xuất và một khi lô tôm nào đó có vấn đề về thì hàng loạt sản phẩm bị kiểm định xác suất cũng đều có kết quả tương tự. Ngoài ra, những năm gần đây, đặc biệt những tháng đầu năm 2015, tôm Việt Nam bị áp lực cạnh tranh lớn do giá thành cao dẫn đến giá xuất khẩu cao hơn đáng kể so với các nước đối thủ như Ấn Độ, Indonesia.
Xây dựng lộ trình hợp lý
Ðể sản phẩm tôm Việt Nam chinh phục các thị trường khó tính và giá trị cao, ngành nông nghiệp đã xây dựng lộ trình phát triển diện tích tôm nuôi công nghiệp, tôm quảng canh cải tiến, tôm sinh thái… Quan trọng hơn, cần đẩy mạnh áp dụng các quy trình nuôi và đạt chứng nhận nuôi thủy sản an toàn như: VietGAP, GlobalGAP, ASC, BMP… Chuyển đổi cơ cấu các sản phẩm thủy sản chế biến xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng. Đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm từ ao nuôi đến bàn ăn, truy xuất nguồn gốc trong nuôi trồng thuỷ sản, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò nồng cốt.
Ông Lê Văn Sử, Giám đốc Sở NN&PTNT Cà Mau cho biết, thời gian tới, Cà Mau sẽ chuyển đổi cơ cấu sản phẩm thủy sản chế biến xuất khẩu theo hướng nâng tỷ trọng sản phẩm tôm giá trị gia tăng lên 70%. Ðồng thời, đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến để nâng cao năng suất lao động và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo ISO, HACCP, GMP, SSOP… tại các nhà máy chế biến. Mặt khác, sẽ xây dựng thương hiệu “tôm Cà Mau” và từng bước phân phối trực tiếp sản phẩm tôm đến các siêu thị tại các thị trường quốc tế.
Theo VASEP, giảm giá thành nuôi tôm là tiếp cận quan trọng cho phát triển ổn định và bền vững, là yếu tố chính để tạo dựng và duy trì năng lực cạnh tranh cho ngành tôm. Vì vậy, việc xem xét và cải thiện chất lượng con giống, giá thức ăn nuôi tôm, tâm lý và nhận thức của người nuôi… để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành tôm Việt Nam là thực sự cần thiết khi mà các nước sản xuất khác đang có lợi thế về nguồn nguyên liệu thức ăn, con giống.
>> Theo ông Chu Văn An, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, trong thời đại cạnh tranh ngày nay, doanh nghiệp phải liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến dây chuyền, trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao. Trong đó, sản xuất sản phẩm sạch ứng dụng công nghệ sinh học được xem là bước đột phá để sản phẩm tôm xâm nhập sâu vào những thị trường lớn.
Thủy sản Việt Nam