Ngành tôm Việt Nam: Những dấu son và thách thức

Wednesday,
21/02/2018
0

Ngành tôm Việt Nam phát triển muộn hơn nhiều nước, nhưng nhờ sách lược đúng đắn của Nhà nước, ngành tôm đang từng bước phát triển theo hướng sản xuất hiện đại và bền vững. Tuy vậy, giá trị kinh tế mà con tôm đem lại cho người nông dân vẫn còn ở mức khiêm tốn.


Từ cuộc cách mạng ngành tôm thời chiến tranh

Những năm đầu thế kỷ 20, khi các cuộc chiến tranh thế giới liên tục nổ ra và nhu cầu lương thực, thực phẩm của con người trở nên cấp thiết, các vùng biển và đại dương bị chiến tranh ảnh hưởng, con người bắt đầu quan tâm đến việc nuôi trồng thủy sản.

Những năm 1940, tôm he Nhật Bản đã được người Nhật nghiên cứu nuôi trồng, tuy vậy vấn đề thức ăn cho tôm chưa được giải quyết. Những năm 1960, khi các nhà khoa học Mỹ tập trung đầu tư nghiên cứu lĩnh vực tôm thì thức ăn cho tôm bắt đầu được giải quyết tốt hơn và từ đó tôm nuôi được chú ý ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Đài Loan, Thái Lan.

Phong trào nuôi tôm thực sự phát triển vào những năm 1990, khi nhiều quốc gia cùng tham gia nghiên cứu và phát triển các công ty giống. Thị trường thế giới cũng dần mở rộng sau thời kỳ chiến tranh lạnh.

Ngành nuôi tôm Việt Nam phát triển rất sớm. Theo tư liệu thì ngay từ năm 1971, các nhà khoa học ở miền Bắc đã nghiên cứu cho đẻ tôm he và tôm đất và sau đó có sự hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa học Nhật Bản. Tại miền Nam, năm 1983, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang cũng đã cho đẻ thành công với tôm P.merguiensis và sau đó là P.monodon. Năm 1984, Viện Hải dương học cũng cho đẻ thành công với tôm P.merguiensisP.monodon.

 

Con tôm lớn lên cùng Đổi mới

Ngành thủy sản được chính phủ Việt Nam xem là ngành đột phá trong phát triển kinh tế. Đổi mới đã đưa đất nước phát triển theo hướng xóa bỏ bao cấp, đưa sản xuất hàng hóa thành ưu tiên hàng đầu. Ngành tôm được đầu tư nghiên cứu và đạt được nhiều kết quả khả quan. Theo số liệu, đến đầu năm 1986 Việt Nam đã sản xuất được 3,3 triệu tôm he giống và đã xây dựng các trại có quy mô lớn như Quý Kim - Bãi Cháy, Quy Nhơn, Vũng Tàu.

Năm 1986, cả nước có khoảng 28 trại sản xuất 20 triệu tôm post/năm đến năm 1989 có khoảng 49 trại sản xuất 200 triệu tôm post/năm. Năm 1991, 120 trại sản xuất khoảng 300 triệu tôm post/năm. Đến năm 1994 cả nước có khoảng 680 trại sản xuất được khoảng 2 tỷ tôm post/năm. Khánh Hòa chính là tỉnh có ngành tôm phát triển nhất trong thời Đổi mới với 461 trại tôm giống năm 1994 và năm 1995 đã có tới 600 trại tôm, chiếm phần lớn số trại tôm cả nước và sản xuất ra 1,4 tỷ con tôm giống.

Ngành tôm những năm đầu chủ yếu là nuôi quảng canh, tôm giống có nguồn gốc tự nhiên; đầu tư cho nuôi tôm chưa nhiều và không đòi hỏi nhiều vốn liếng. Tuy vậy, Chính phủ đã hình thành Chiến lược phát triển thủy sản giai đoạn 1985 - 2000 và 1990 - 2005, thể hiện tầm nhìn xa và việc quy hoạch bước đầu, hình thành nên các vùng nuôi trồng và xuất khẩu còn có giá trị đến ngày nay.

 

Đẩy mạnh xuất khẩu những năm 2000

Ngành thủy sản nói chung, ngành tôm nói riêng, trước kia chủ yếu phục vụ nội địa; tỷ lệ khai thác thấp, tuy vậy tình hình thay đổi dần trong những năm 1990. Nếu năm 1991, tỷ lệ tăng trưởng khai thác trong ngành thủy sản chiếm 17,9% và nuôi trồng tăng trưởng chỉ 6,8%; thì năm 2001, tỷ lệ khai thác tăng trưởng chỉ còn 3,5%, trong khi tỷ lệ nuôi trồng tăng 41,9%, trong đó ngành tôm chiếm vị trí chủ lực.

Quá trình Đổi mới đã làm gia tăng xuất khẩu mạnh mẽ, điều đó giúp tăng trưởng ngành nuôi trồng. Năm 1988 xuất khẩu 90 triệu USD, năm 2000 đạt hơn 1 tỷ USD, mức tăng trưởng bình quân 20% mỗi năm. Thủy sản xuất khẩu vào 45 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 1998, một cột mốc mới đã hình thành khi giá trị xuất khẩu sản phẩm nuôi trồng ngành thủy sản đã vượt qua giá trị của ngành khai thác thủy sản.

Thương hiệu tôm Việt ngày càng được khẳng định - Ảnh: Huỳnh Lâm
 

Ngành xuất khẩu thủy sản phát triển, những năm 1990 - 2000 thị trường chủ yếu vẫn là Nhật Bản. Tuy nhiên, vào những năm 2000, thị trường xuất khẩu tôm ngày càng mở rộng và kéo theo diện tích nuôi trồng tăng nhanh; trị giá xuất khẩu trên 2,7 tỷ USD năm 2005, gấp 25,8 lần năm 1986. Diện tích nuôi cá năm 2005 chỉ tăng 5% so năm 2000, thì diện tích nuôi tôm tăng tới 82,8%. Tỷ lệ diện tích nuôi tôm đã tăng từ 53,2% năm 2000 lên 64,8% năm 2005, ngược lại diện tích nuôi cá đã giảm từ 42,9% xuống còn 30,2%.

Tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam trong năm 2011 đạt gần 2,4 tỷ USD, vượt qua mốc 2 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tôm sú trên 1,43 tỷ USD, chiếm gần 60% tổng giá trị, xuất khẩu tôm thẻ chân trắng 704 triệu USD, chiếm 29,3% tỷ trọng, 12% còn lại là tôm các loại khác.

 

Cột mốc 4 tỷ USD

Năm 2014, xuất khẩu tôm Việt Nam hơn 4 tỷ USD, một con số hết sức ấn tượng, nếu như chúng ta biết dịch bệnh hoành hành tôm đã diễn ra và gây khó từ những năm 2000 (Năm 2011, dịch bệnh lây lan trên diện rộng tại các vùng nuôi tôm khu vực ĐBSCL làm thiệt hại 97.691 ha và liên tục nhiều năm sau đó vẫn gay gắt). Thành công cơ bản được ghi nhận đó là việc tăng trưởng tôm thẻ vốn có khả năng chống chịu dịch bệnh; đồng thời, việc kiểm soát dịch cũng diễn ra kịp thời. Chính các cơ sở này khiến nhiều người lạc quan và cho rằng năm 2015 Việt Nam có thể dễ dàng cán mốc 4 tỷ USD xuất khẩu tôm. Song thực tế, năm 2015 xuất khẩu tôm giảm gần 30% so năm 2014, tạo ra một cú sốc thực sự cho những người trong ngành này và chỉ đạt hơn 3 tỷ USD. Vậy đâu là khó khăn ngành tôm Việt Nam đang gặp phải?

Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm mạnh chỉ do giảm giá. “Trên thực tế thủy sản Việt Nam đã giữ được sản lượng xuất khẩu tương đương với năm 2014”, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận định. Mặc dù sụt giảm mạnh nhưng rõ ràng xuất khẩu tôm tiếp tục giữ ngôi vị số 1 với tỷ trọng giá trị xuất khẩu chiếm 44% của ngành thủy sản.

 

Phục hồi 60 thị trường

Thống kê cho thấy, năm 2015, tôm Việt Nam xuất khẩu sang 92 thị trường, giảm so 150 thị trường của năm 2014, các cơ quan truyền thông nhận định là “bị mất 1/3 thị trường tôm chỉ trong một năm”.

Việc mất thị trường diễn ra do cả hai phía khách quan và chủ quan. Khách quan là nhiều nước phát triển xuất khẩu tôm giá rẻ, điển hình là Ấn Độ. Sau một thời gian đầu tư, ngành tôm Ấn Độ đã gặt hái những kết quả tích cực đầu tiên với sản lượng lớn và giá thành rẻ. Cùng đó, việc các đồng ngoại tệ mạnh rớt giá, trong khi, ngành tôm Việt Nam lại phải chi ngoại tệ nhập khẩu rất nhiều thức ăn, con giống… khiến tôm Việt Nam giảm sức cạnh tranh ở một số thị trường lớn, điển hình là Mỹ giá tôm sú giảm tới 30%.

Năm 2016, ngành tôm Việt Nam quyết tâm giành lại thị trường bằng việc tiết giảm chi phí, tăng tỷ lệ nuôi thành công, tăng chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong quý I/2016 đã hồi phục đạt 1,45 tỷ USD, tăng gần 6,4% so cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu tôm đạt 619,2 triệu USD, tăng 8%. Xuất khẩu vào Mỹ tăng 15%, ASEAN tăng 18,8% là dấu hiệu phục hồi rất tích cực.

Trong chuyến thăm Việt Nam mới đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã đánh giá cao những đóng góp của ngành nông nghiệp Việt Nam trong việc cung ứng lương thực thực phẩm cho toàn thế giới. Ông cũng tin rằng Việt Nam sẽ hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường thế giới và sẽ sớm giành được những kết quả vượt bậc. Nhiều chuyên gia cũng cho rằng với những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, thế mạnh về nhân lực trình độ cao, khả năng nhạy bén trong nắm bắt thị trường, xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ vượt qua cột mốc xuất khẩu tôm 4 tỷ USD được mong đợi mấy năm qua. Tuy vậy, thực tế biến đổi khí hậu, thâm nhập mặn ngày càng ảnh hưởng thì việc phát triển ngành tôm trong giai đoạn 2016 - 2025 cũng sẽ đòi hỏi sự đầu tư và những cú hích mới.

>> Bộ NN&PTNT dự báo năm 2016 nhu cầu tiêu thụ tôm vẫn tiếp tục tăng và điều quan trọng là tỷ giá hối đoái đã ổn định, uy tín và thương hiệu tôm Việt Nam ngày càng được khẳng định. Kim ngạch dự báo năm 2016 sẽ phục hồi và đạt 3,3 tỷ USD


Thủy sản Việt nam

 

Viết bình luận của bạn:
popup

Số lượng:

Tổng tiền: